Những trường hợp nguy cơ mà thai phụ cần đẻ mổ

0
31
Mổ đẻ là một phẫu thuật thông thường hay gặp trong sản khoa nhằm lấy thai nhi, nhau, màng ối bằng một vết mổ qua thành bụng và thành tử cung còn nguyên vẹn. Mổ đẻ là một cuộc đại phẫu cần được sự chỉ định từ trước hoặc trong quá trình chuyển dạ do bác sĩ nhận định

 

Đẻ mổ là gì?

 

– Mổ đẻ là một phẫu thuật thông thường hay gặp trong sản khoa nhằm lấy thai nhi, nhau, màng ối bằng một vết mổ qua thành bụng và thành tử cung còn nguyên vẹn.

 

– Mổ lấy thai là một biện pháp kỹ thuật, có những chỉ định và yêu cầu cụ thể về chuyên môn mà người bác sĩ chỉ tiến hành khi việc đẻ tự nhiên theo đường âm đạo không bảo đảm an toàn cho mẹ hoặc con, hoặc cho cả mẹ và con.

 

– Mổ lấy thai không bao gồm việc mổ bụng lấy một thai ngoài tử cung nằm trong ổ bụng, hay lấy một thai đã rơi một phần hay toàn bộ vào trong ổ bụng do vỡ tử cung.

 

Ảnh minh họa: Nguồn internet

 

Những trường hợp nguy cơ mà thai phụ cần đẻ mổ

 

Về phía sản phụ:

 

– Khi thai phụ quá yếu, không thể thực hiện được những cơn rặn đẻ hoặc cơn đau đẻ chấm dứt giữa chừng.

 

– Khung chậu hẹp, khung chậu méo, hoặc khung chậu giới hạn và ước lượng cân thai không nhỏ, nứt hoặc vỡ xương chậu trước đó.

 

– Bị bệnh lý không thể sinh thường được: Nhiễm herpes sinh dục, nhiễm HIV, bệnh tim nặng, tiểu đường, tiền sản giật (cao huyết áp khi mang thai), …

 

– Tiền sản giật nặng hoặc sản giật nhưng cổ tử cung không thuận tiện để sinh ngả âm đạo.

 

– Có vết mổ cũ trên thân tử cung: Mổ bóc nhân xơ, mổ tạo hình tử cung, mổ lấy thai từ 2 lần trở lên.

 

– Có những khối u cản đường ra của thai nhi (được gọi là u tiền đạo) như u xơ tử cung nằm thấp, u nang buồng trứng nằm thấp.

 

– Âm đạo có sẹo do phẫu thuật tạo hình, rách và khâu trong những lần sanh trước.

 

– Cổ tử cung có sẹo do viêm loét, do đốt điện, khoét chóp, cắt cụt cổ tử cung hay cổ tử cung có khối u,… làm cổ tử cung không xoá và mở được

 

Ảnh minh họa: Nguồn internet

 

Về phía thai, nhau, ối:

 

– Thai phụ mang đa thai, thai nhi bị dị tật bẩm sinh, thai nhi gặp vấn đề (thiếu oxy hoặc nhịp tim thất thường,…)

 

– Thai suy trong chuyển dạ, thai suy dinh dưỡng kém phát triển trong tử cung, mạng sống bào thai đang bị đe dọa.

 

– Thai to (4 kg trở lên). Con quý, hiếm (thụ tinh ống nghiệm, lâu ngày mới có con, mẹ trên 40 tuổi mới có con đầu lòng).

 

– Ngôi thai bất thường: ngôi ngang, ngôi mông, ngôi trán, ngôi mặt.

 

– Nhau tiền đạo, nhau bong non, sa dây rốn.

 

– Ối vỡ lâu nhưng cổ tử cung không mở. Thiểu ối nặng hoặc vô ối.

 

– Nhau thai rời khỏi thành tử cung quá sớm. Khuỷu tay, đầu hoặc thân của bé quá to khiến bé bị mắc kẹt và không thể sinh thường.

 

 

Phương pháp đẻ mổ là biện pháp cứu cánh cho thai phụ và thai nhi gặp bất thường. Phương pháp này giúp ca sinh nở diễn ra rất nhanh chóng khiến thai phụ không mất sức khi không phải chịu đựng cơn đau đẻ và hoàn toàn tỉnh táo trong suốt quá trình ca mổ đẻ diễn ra. Trong quá trình đẻ mổ, sản phụ sẽ phải dùng đến thuốc gây mê nhưng bản thân thuốc gây mê lại rất có hại, gây ra nhiều tác dụng phụ như tụt huyết áp, ảnh hưởng đến nguồn sữa mẹ. Khả năng miễn dịch với bệnh của trẻ đẻ mổ thường kém hơn so với những trẻ được sinh ra bằng phương pháp đẻ thường nên các trẻ này sau khi trưởng thành dễ mắc bệnh hơn.

Theo NTD

Những trường hợp nguy cơ mà thai phụ cần đẻ mổ

 

Theo NTD